Phải nói rằng Đông Cung đã kế thừa nguyên tác xuất sắc ở một điểm: rất biết cách "hành hạ" nhân vật và khán giả. Chừng như cảm thấy nguyên tác ngược chưa đủ, bản phim đã chủ động gia thêm một số chi tiết khiến nhân vật khổ càng thêm khổ, khán giả buồn càng thêm buồn. Mỗi nhân vật của Đông Cung chịu đựng một kiểu khổ ải khác nhau, và kết cục chung, chính là đều có một kết thúc vô hậu khiến khán giả, độc giả phải suy nghĩ mà day dứt.
Cố Kiếm: Một quyết định sai, cả đời sai
Cố Kiếm (Ngụy Thiên Tường) là sư phụ của Tiểu Phong. Cuộc đời Tiểu Phong đi đến bước đau khổ như vậy đều nhờ "công" lớn của Cố Kiếm, bởi hắn là người lừa nàng đến gặp Lý Thừa Ngân dù biết hắn sẽ lợi dụng nàng. Cho nên về sau, hắn hối hận, hắn năm lần bảy lượt xuất hiện muốn đưa Tiểu Phong rời xa Lý Thừa Ngân, đáng tiếc đã quá muộn. Hắn đành chuyển mục tiêu thành làm người âm thầm bảo hộ nàng, cứu nàng giúp nàng không màng cả tính mạng bản thân. Có thể nói, tình yêu của Cố Kiếm đối với Tiểu Phong không thua gì nam chính, chỉ là hắn đã trót vì một quyết định sai mà mất đi hạnh phúc một đời.
Cố Kiếm đã từng là người có thể có tất cả.
Nhưng sau cùng lại thành người mất tất cả.
Theo nguyên tác Đông Cung, Cố Kiếm chết dưới làn mưa tên trong lúc cố gắng cứu cả Tiểu Phong lẫn A Độ khỏi Đông cung. Dựa trên những cảnh phim đã được tiết lộ thì kết cục của Cố Kiếm sẽ được giữ nguyên như trong truyện. Chưa kể, biên kịch chừng như cảm thấy Cố Kiếm chưa đủ khổ nên quyết định tăng "cấp độ" ngược so với nguyên tác, để hắn bị trọng thương nặng nề chỉ còn sống được ít lâu nhưng vẫn luôn bảo vệ Tiểu Phong, còn khắc họa rõ hơn tình cảm của những nữ nhân khác với hắn, tất cả đều là để làm bật lên cuộc đời khổ ải của hắn và tình cảm thủy chung hắn dành cho người con gái Tây Châu.
Chưa kể biên kịch chừng như cảm thấy hắn bị ngược chưa đủ, nên gia tăng thêm cảnh đau khổ.
Một vài công việc làm hãng ở Mỹ
Công việc nào cũng có cái khó riêng. Có những công việc nặng đòi hỏi thể chất, có những công việc đòi hỏi kỹ thuật như: hàn, tiện. Cũng có những công việc tương đối dễ.
Thời gian đầu nếu chưa tìm được việc phù hợp sẽ thấy hơi cực. Tuy nhiên nếu tìm được việc phù hợp và làm quen tay thì sau này sẽ ổn định hơn.
Khó khăn lớn nhất có lẽ chính là cản trở về tiếng Anh. Nên mọi người thường tìm những hãng có người Việt để dễ xin việc.
Ở Mỹ có một luật về công bằng trong lao động, không được kỳ thị người xin việc dựa trên độ tuổi, giới tính, sắc tộc,… Người Việt ai cũng chịu thương chịu khó nên dù sẽ có những người gặp cản trở về ngôn ngữ, tuy nhiên cứ làm việc chăm chỉ thì mọi khó khăn sẽ được vượt qua.
Bài viết “làm hãng ở Mỹ” được tham khảo từ bài viết của Võ Kiến Thành. Admin nhóm Facebook Luật di trú và cuộc sống Mỹ.
Tháng 7.1939, Tổng thống Cộng hòa Pháp Albert Lebrun ký sắc lệnh cho phép tuyển người bản xứ vào làm việc trong đội ngũ khoa học, nghiên cứu của Học viện Viễn Đông Bác cổ, trong đó có người Việt đầu tiên trong thành phần thường trực.
Các thành viên, nhân viên Việt Nam tại Học viện Viễn Đông Bác cổ năm 1936
Học viện Viễn Đông Bác cổ đã quy tụ được các nhà Đông phương học, Việt Nam học uyên bác trong học giới lúc bấy giờ (nhà khảo cổ, sĩ quan quân đội (biệt phái viên), tu sĩ, nhà truyền giáo, nhà ngôn ngữ học, nhà dân tộc học, nhà thực vật học, kiến trúc sư…): Louis Finot, Henri Maspero, Henri Parmentier, Louis Malleret, Paul Lévy, George Cœdès, Léon Vandermeesch, Gustave Dumoutier, Etienne Edmond Lunet de Lajonquière, Léopold Cadière, Maurice Durand, Auguste Bonifacy, Henri Cordier, Paul Pelliot, Louis Bezacier, André-Georges Haudricourt…
Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên (ngồi giữa) trong buổi lễ bàn giao thư viện sang Ủy ban Khoa học Nhà nước, ảnh chụp năm 1959
Điểm nổi bật của họ là phương pháp nghiên cứu khoa học thực chứng và những điều tra dân tộc học, cắm mình nơi thực địa. Nhờ có Học viện Viễn Đông Bác cổ và tinh thần khoa học châu Âu mà những công trình lịch sử, di tích Việt - Chàm bấy giờ ít được quan tâm được bảo tồn, bảo vệ; những phế tích như Angkor tại Cao Miên, công trình-di sản như Văn Miếu - Quốc Tử Giám tại Hà Nội, chùa Một Cột, chùa Bút Tháp… được phục chế, trùng tu.
Theo sắc lệnh ngày 3.4.1920, Học viện Viễn Đông Bác cổ chính thức tiếp nhận các trợ lý, thư ký, văn thư, phiên dịch tinh thông Hán - Nôm, họa sĩ, thợ ảnh, nghệ nhân điêu khắc… là người bản xứ. Đến tháng 7.1939, Tổng thống Cộng hòa Albert Lebrun ký sắc lệnh cho phép tuyển người bản xứ vào làm việc trong đội ngũ khoa học, nghiên cứu của Học viện Viễn Đông Bác cổ.
Thành viên nghiên cứu (thường trực) người Việt đầu tiên của Học viện Viễn Đông Bác cổ là ông Nguyễn Văn Huyên. Theo Amaury Lorin, trong Paul Doumer: Toàn quyền Đông Dương (1897-1902), thì ông Huyên được bổ nhiệm làm thành viên dự bị vào năm 1939, rồi thành viên chính thức vào năm 1942. Ngoài ra, còn có những trợ lý nghiên cứu, họa sĩ, cộng tác viên người Việt khác như: Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Khoan, Trần Văn Giáp, Nguyễn Thiệu Lâu, Trần Hàm Tấn, Lê Dư, Nguyễn Trọng Phấn, Công Văn Trung... Những trí thức người Việt này đã có những đóng góp nhất định trong dòng chảy lịch sử nghiên cứu khoa học của Học viện Viễn Đông Bác cổ, đó là một thế hệ tinh hoa không dễ có, họ góp phần đặt nền móng cho nền khoa học xã hội nhân văn hiện đại ở Việt Nam.
Với đội ngũ nhân sự hùng hậu, Học viện Viễn Đông Bác cổ tiến hành nghiên cứu rộng khắp, từ khoa học nhân văn, giáo dục, văn hóa dân gian, phong tục tập quán, văn học, văn khắc học, Phật học, đến lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á nói chung.
Bảo tàng Blanchard de la Brosse được xây dựng năm 1929 tại Sài Gòn là một trong những bảo tàng của Học viện Viễn Đông Bác cổ, nay là Bảo tàng Lịch sử TP.HCM
Để phục vụ khoa học, Học viện Viễn Đông Bác cổ thành lập, trang bị các thư viện, bảo tàng rất quy mô như: Thư viện Học viện Viễn Đông Bác cổ (nay là Thư viện Khoa học xã hội), Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), Bảo tàng Henri Parmentier (nay là Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng), Bảo tàng Blanchard de la Brosse (nay là Bảo tàng Lịch sử TP. HCM), Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế)… Cũng từ rất sớm, Học viện Viễn Đông Bác cổ chú trọng đến công tác đào tạo, giảng dạy; công bố các nghiên cứu bằng hoạt động xuất bản sách chuyên khảo, hoạt động báo chí với sự ra đời của nhiều tập san khoa học. Một tinh thần khoa học rất Pháp trong lòng Đông Dương.
Cho đến nay, những nghiên cứu của các học giả Học viện Viễn Đông Bác cổ được dịch ra tiếng Việt vẫn còn rất khiêm tốn. Mong sao những công trình kinh điển về khảo cổ, kiến trúc Chăm, lịch sử-mỹ thuật của Henri Parmentier, Louis Malleret, Louis Bezacier, Louis Finot…sẽ sớm được xuất bản bằng tiếng Việt trong thời gian tới.
A Độ: Nhớ tất cả nhưng không thể nói
Sau khi Tiểu Phong và Lý Thừa Ngân được cứu lên từ sông Quên, A Độ (Na Cát Mã) cùng nàng đến Lễ triều. Tiểu Phong đã quên hết mọi chuyện nên có thể tương đối vui vẻ bắt đầu cuộc sống mới, nhưng A Độ thì không quên. Nàng ôm mối hận và đau khổ sống mà không thể lên tiếng, nhìn thấy Lý Thừa Ngân kẻ hại chết ca ca và gia tộc mình cũng không thể trả thù, cốt chỉ để bảo vệ Tiểu Phong được yên bình. Khoảnh khắc Tiểu Phong luyện viết chữ "Gia", nghĩa là nhà, giọt nước mắt cay đắng của A Độ rơi xuống nghiêng mực đã trở thành một trong những khoảnh khắc xúc động nhất của Đông Cung.
Nhớ mà không thể nói, thực sự là một loại đau khổ tột cùng.
Trong nguyên tác, A Độ không nói chuyện được, tất cả độc giả đều xác định nàng bị câm. Tuy nhiên phim Đông Cung đã thay đổi chi tiết này, rằng A Độ thật ra có thể nói, chỉ là luôn buộc mình giữ im lặng. Chi tiết này, nghĩ theo hướng tiêu cực là giảm đi sự bi thương của truyện, nhưng nghĩ theo hướng khác, có thể nói mà phải giả câm, ngậm miệng sống qua ngày nhìn công chúa của mình dần cảm mến kẻ thù một lần nữa, cũng là một loại đau khổ quá mức rồi. Tất cả những chịu đựng của A Độ, đều chỉ vì Tiểu Phong. Rời cố hương, giữ bí mật, che chắn Tiểu Phong khỏi hiểm nguy, bên cạnh nàng mọi lúc, đến cùng còn vì nàng mà chết, A Độ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả không thua kém cặp đôi chính.